Tế bào gamma delta t là gì? Các công bố khoa học về Tế bào gamma delta t

Tế bào Gamma Delta T là một phần quan trọng của hệ miễn dịch ở người và động vật có xương sống, có khả năng nhận diện tác nhân gây bệnh không phụ thuộc vào kháng nguyên trình diện. Chúng phát hiện nhanh các phân tử streptococcus và phản ứng với nhiễm trùng, bảo vệ chống vi khuẩn, nấm và kí sinh trùng. Ngoài việc tham gia vào các phản ứng miễn dịch bẩm sinh và đặc hiệu, chúng tiêu diệt tế bào nhiễm bệnh và ung thư, điều hòa phản ứng miễn dịch qua cytokine. Nghiên cứu lâm sàng đang khai thác tiềm năng của chúng trong liệu pháp miễn dịch chống ung thư.

Giới thiệu về Tế bào Gamma Delta T

Tế bào Gamma Delta T là một thành phần độc đáo và quan trọng của hệ thống miễn dịch cơ thể người và các động vật có xương sống khác. Khác với các tế bào T thông thường, tế bào Gamma Delta T có khả năng nhận diện và phản ứng với những tác nhân gây bệnh một cách không phụ thuộc vào các kháng nguyên trình diện trên bề mặt.

Cơ cấu và chức năng của Tế bào Gamma Delta T

Tế bào Gamma Delta T có khả năng nhận diện các phân tử streptococcus, một đặc điểm nổi bật phân biệt chúng với các tế bào Alpha Beta T. Các tế bào này có thể phản ứng nhanh chóng đối với nhiễm trùng mà không cần qua giai đoạn chờ kháng nguyên trình diện. Sự độc đáo này đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể chống lại sự xâm nhập của nhiều loại vi khuẩn, nấm và kí sinh trùng.

Vai trò trong Phản ứng Miễn dịch

Tế bào Gamma Delta T không chỉ tham gia vào phản ứng miễn dịch bẩm sinh mà còn có vai trò trong phản ứng miễn dịch đặc hiệu. Chúng có thể phát hiện và tiêu diệt các tế bào bị nhiễm bệnh và ung thư. Hơn nữa, các tế bào này còn giúp điều hòa các phản ứng miễn dịch thông qua việc sản xuất cytokine, từ đó điều chỉnh hoạt động của các tế bào miễn dịch khác.

Ứng dụng Lâm sàng và Nghiên cứu

Với khả năng nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư, tế bào Gamma Delta T đã trở thành tâm điểm của nhiều nghiên cứu lâm sàng, đặc biệt trong liệu pháp miễn dịch chống ung thư. Việc khai thác sức mạnh của các tế bào này có thể mở ra những phương pháp điều trị tối ưu và ít tác dụng phụ hơn.

Kết luận

Tế bào Gamma Delta T đóng vai trò không thể thiếu trong việc bảo vệ cơ thể chống lại các bệnh lý nhiễm trùng và ung thư. Do đó, việc hiểu rõ hơn về chúng có thể mang đến những bước tiến lớn trong lĩnh vực y học, mở ra nhiều cơ hội cải tiến các phương pháp điều trị hiện tại.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tế bào gamma delta t":

BÁO CÁO CA LÂM SÀNG: TÍNH AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ CỦA LIỆU PHÁP TẾ BÀO MIỄN DỊCH TỰ THÂN GAMMA DELTA T (γδT) TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 2 - 2021
Sử dụng tế bào miễn dịch tự thân γδT trong điều trị ung thư phổi đang trở thành bước tiến quan trọng kế tiếp để mở ra triển vọng được cung cấp liệu pháp tốt nhất cho bệnh nhân ung thư phổi Việt Nam. Mục tiêu của bài báo này là bước đầu đánh giá tính an toàn và hiệu quả của liệu pháp miễn dịch tự thân γδT trong điều trị một bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ, giai đoạn IV tại Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu: báo cáo ca lâm sàng và hồi cứu y văn. Kết quả: Sau 3 lần truyền tế bào miễn dịch tự thân γδT, bệnh nhân đã cải thiện đáng kể cả về triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh. Kết luận: liệu pháp tế bào miễn dịch tự thân γδT cho thấy độ an toàn cao và mang lại kết quả khả quan trong điều trị ung thư phổi nói riêng và các loại ung thư khác nói chung.
#liệu pháp tế bào miễn dịch tự thân γδT #ung thư phổi không tế bào nhỏ
IL-17 Góp Phần Vào Sự Phát Triển Của Tình Trạng Đào Thải Mạn Tính Trong Mô Hình Ghép Tim Ở Chuột Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 30 - Trang 235-240 - 2010
Mặc dù interleukin-17 (IL-17) đã được báo cáo tham gia vào cơ chế sinh bệnh của các rối loạn nhiễm trùng, tự miễn và dị ứng, nhưng vai trò chính xác của nó trong tình trạng đào thải ghép vẫn chưa rõ ràng. Nghiên cứu này chỉ ra rằng IL-17 góp phần vào cơ chế sinh bệnh của tình trạng đào thải ghép mạn tính. Sử dụng mô hình ghép tim dị hợp chủng ở chuột, những con chuột thụ gốc thiếu hụt IL-17 cho thấy sự giảm thiểu trong việc thu hút tế bào viêm tại ghép, giảm sản xuất IL-6, MCP-1, và KC, cùng với sự giảm thiểu bệnh lý động mạch vành ghép (GCAD). Các tế bào T gamma delta (γδ) trong ghép dường như là nguồn sản xuất IL-17 chủ yếu. Do đó, việc trung hòa IL-17 có thể cung cấp một mục tiêu tiềm năng cho việc điều trị mới đối với tình trạng đào thải ghép tim.
#IL-17 #đào thải ghép #ghép tim #tế bào T gamma delta #viêm ghép
Khối u lympho T-bào lymphoblast biểu hiện dạng không liên kết disulfide của thụ thể tế bào T gamma/delta: đặc trưng bằng kháng thể đơn dòng và phân tích genotyp Dịch bởi AI
Blood - Tập 74 - Trang 2501-2507 - 1989
Tóm tắt

Bài báo này báo cáo ba trường hợp u lympho T-bào lymphoblast (T-LL) biểu hiện thụ thể kháng nguyên tế bào T gamma delta (TCR gamma delta). Tất cả đều là CD3+/beta F1-/TCR delta 1+. Hơn nữa, các tế bào u ác tính phản ứng với kháng thể đơn dòng delta TCS1 (MoAb) mà liên kết với dạng không liên kết disulfide của TCR gamma delta, nhưng không phản ứng với kháng thể BB3 MoAb nhận diện dạng liên kết disulfide của TCR gamma delta. Tất cả các trường hợp đều cho thấy kiểu hình vỏ giai đoạn II, ví dụ, TdT+/CD1+/CD3+/CD5+/CD7+; hai trong số đó đồng biểu hiện CD4/CD8, trong khi trường hợp còn lại là CD4+/CD8-. Hai trường hợp có kết quả dương tính với CALLA và CD25. Phân tích immunogenotyp cho thấy bằng chứng về sự tái sắp xếp gen T beta và C gamma 2 ở cả ba trường hợp và tái sắp xếp gen immunoglobulin (Ig) ở hai trường hợp. Hai bệnh nhân trình bày với một khối u lớn ở giữa ngực phía trước và trường hợp thứ ba với một bệnh lý hạch bạch huyết bẹn đơn độc. Chúng tôi gợi ý rằng các trường hợp TCR gamma delta+ T-LL này có thể xuất phát từ một quần thể nhỏ (khoảng 0,5%) của các tế bào thymocyte vỏ CD3+ mà, trong tuyến ức người bình thường, biểu hiện dạng phi liên kết disulfide của TCR gamma delta mà phản ứng với delta TCS1.

Các tế bào Dendritic có thể được kích hoạt để đồng thời kích thích cả tế bào T gamma/delta không điển hình và tế bào T alpha/beta điển hình Dịch bởi AI
Blood - Tập 108 - Trang 3893 - 2006
Tóm tắt

Các tế bào T Vgamma9/Vdelta2 (gamma/delta) đại diện cho phân nhóm chính của các tế bào T không điển hình lưu hành trong máu ngoại vi. Tế bào gamma/delta đóng một vai trò quan trọng trong việc phòng vệ miễn dịch chống lại vi sinh vật, tế bào bị stress và tế bào ung thư. Đặc điểm này dựa vào khả năng tự nhiên nhận diện các phosphoantigen (pAgs), được sản xuất thông qua con đường mevalonate (Mev) hoặc con đường DOXP trong các tế bào động vật có vú và không có vú, cũng như các ligand tự kích thích, được biểu hiện de novo hoặc điều chỉnh trên bề mặt của các tế bào bị stress hoặc tế bào ung thư. Thú vị thay, các tế bào gamma/delta cũng có thể được kích hoạt bởi các đơn bào được điều trị bằng aminobisphosphonate (ABP). Chúng tôi đã từng chỉ ra rằng ABP nhắm mục tiêu cụ thể vào con đường Mev của các đơn bào và thúc đẩy sự tích tụ của các chuyển hóa Mev phosphorylated được tế bào gamma/delta nhận diện một cách tự nhiên. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định liệu các tế bào Dendritic (DC) được điều trị bằng ABP cũng có thể kích hoạt tế bào gamma/delta và liệu việc kích hoạt này, nếu có, có gây hại hay có lợi cho việc sinh ra các phản ứng miễn dịch cụ thể với kháng nguyên (Ag) có giới hạn bởi MHC do các tế bào T alpha/beta điển hình chi phối. Để thực hiện điều này, chúng tôi đã tạo ra các DC chưa trưởng thành (iDC) và trưởng thành (mDC) có độ tinh khiết cao từ các đơn bào máu ngoại vi của các người hiến tặng khỏe mạnh và ủ chúng với axit zoledronic (Zol) trong 24 giờ. Zol là ABP mạnh nhất hiện có cho sử dụng lâm sàng. Việc điều trị Zol không ảnh hưởng đến hình thái và tính chất kích thích miễn dịch của các iDC và mDC. iDC và mDC được điều trị bằng Zol đã thúc đẩy nhanh chóng sự mở rộng mạnh mẽ của các tế bào nhớ trung tâm và tế bào nhớ hiệu ứng gamma/delta. Các iDC được điều trị Zol là những tác nhân kích thích sự hoạt hóa tế bào gamma/delta mạnh mẽ hơn so với mDC và các đơn bào. Các tế bào gamma/delta đã được kích hoạt thể hiện hoạt động chống ung thư và biểu hiện trên bề mặt tế bào các quần thể kháng nguyên phù hợp để nhắm mục tiêu các cơ quan lympho thứ cấp và thực hiện hoạt động đồng kích thích trên các tế bào alpha/beta điển hình. Quả thực, một mô hình in vitro cho thấy rằng các phản ứng miễn dịch cụ thể với kháng nguyên có giới hạn bởi MHC chống lại peptide ma trận virus influenza đã được cải thiện đáng kể nhờ việc kích hoạt đồng thời các tế bào gamma/delta. Đây là báo cáo đầu tiên cho thấy rằng: 1) DC có thể được kích hoạt đồng thời để kích hoạt cả tế bào gamma/delta và tế bào alpha/beta; 2) các tế bào này đóng vai trò như các tác nhân miễn dịch cho sự phát triển của các phản ứng miễn dịch thích nghi. Tóm lại, số lượng lớn tế bào gamma/delta với hoạt động hiệu ứng và đồng kích thích có thể nhanh chóng được tạo ra bởi các iDC/mDC được điều trị bằng Zol. Chiến lược này xứng đáng được điều tra thêm nhằm cải thiện liệu pháp tế bào chấp nhận và các can thiệp vaccine chống lại các khối u và nhiễm trùng.

Lymphoma tế bào T gamma delta không gây độc CD4+ sau cấy ghép với sự tham gia của hạch lympho Dịch bởi AI
Journal of Hematopathology - Tập 11 - Trang 107-113 - 2018
Tế bào T gamma delta đại diện cho một tiểu thể nhỏ trong thành phần lympho bình thường của hệ thống miễn dịch con người, chủ yếu cư trú ở bề mặt niêm mạc. Các loại lymphoma tế bào T gamma delta (γδ TCLs) được cho là xuất phát từ những tế bào này và là các loại lymphoma hiếm gặp, cực kỳ hung hãn, thường thể hiện kiểu hình gây độc tế bào và thường xuất hiện ở các vị trí ngoài hạch, phổ biến nhất là dưới dạng các subtype da hoặc gan-l spleen. Kiểu hình miễn dịch thường thiếu cả biểu hiện CD4 và CD8, nhưng một số trường hợp hiếm gặp biểu hiện CD8. Biểu hiện CD4 trong γδ TCLs rất hiếm. Một vài trường hợp đã được báo cáo có xu hướng thể hiện kiểu hình không gây độc tế bào với sự tham gia ưu tiên của các hạch lympho. Các trường hợp có biểu hiện ngoài da hoặc có lịch sử lâm sàng ức chế miễn dịch, mặc dù tương đối phổ biến giữa các γδ TCLs điển hình, lại càng hiếm gặp hơn giữa tiểu thể CD4+ bất thường này. Mặc dù nhóm rất nhỏ này có vẻ có tiên lượng tồi tệ tương đương với các loại γδ TCL khác, nhưng ít thông tin khác được biết đến liên quan đến việc họ có thể khác biệt sinh học như thế nào và liệu họ có nên được điều trị như một thể loại riêng biệt hay không. Chúng tôi báo cáo một trường hợp độc nhất của lymphoma tế bào T gamma delta dương tính với CD4 có sự tham gia của hạch lympho và trên da trong bối cảnh sau cấy ghép.
#tế bào T gamma delta #lymphoma #CD4+ #sau cấy ghép #hạch lympho
24. Hiệu quả kháng ung thư của tế bào gamma delta T trên mô hình chuột thiếu hụt miễn dịch mang khối ung thư phổi người
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả kháng ung thư của tế bào gamma delta T (γδT) trên chuột thiếu hụt miễn dịch mang khối ung thư phổi người (dòng H460). Tế bào γδT người được hoạt hoá và tăng sinh in vitro đến khi đạt nồng độ ít nhất 107 tế bào/ml. Chuột thiếu hụt miễn dịch mang khối ung thư phổi người được chia thành 4 nhóm (6 con/nhóm), bao gồm 01 nhóm chứng và 03 nhóm điều trị (GDT1, GDT2, GDT3) được tiêm với nồng độ tế bào γδT khác nhau. Đối với nhóm chuột GDT3 mang khối ung thư phổi người H460 được điều trị bằng tế bào γδT với nồng độ cao nhất có thể tích khối u nhỏ hơn, thời gian sống dài hơn và tỉ lệ chuột chết ít hơn so với nhóm chứng. Kết quả nghiên cứu gợi ý rằng, tế bào γδT có hiệu quả kháng ung thư phổi người trên mô hình chuột thiếu hụt miễn dịch mang khối ung thư ghép dị loài.
#Tế bào gamma delta T #ung thư phổi #chuột thiếu hụt miễn dịch
3. Bước đầu đánh giá tính an toàn của liệu pháp miễn dịch tự thân ở bệnh nhân ung thư phổi
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 172 Số 11 - Trang 23-31 - 2023
Nghiên cứu mô tả, tiến cứu trên 10 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ được truyền khối tế bào miễn dịch tự thân (tế bào diệt tự nhiên (NK) hoặc tế bào gamma delta T (γδT)), tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội nhằm đánh giá tính an toàn của liệu pháp trong quá trình điều trị, kết thúc điều trị, sau điều trị 3 tháng và 6 tháng. Các chỉ số đánh giá được phân loại theo hướng dẫn CTCAE 5.0 năm 2017. Kết quả cho thấy, 5 bệnh nhân truyền tế bào NK có các biến cố phổ biến gồm mệt mỏi, chán ăn, mất ngủ, tiêu chảy, táo bón đều chiếm 6,7%, thấp nhất là triệu chứng nôn (3,3%). Còn 5 bệnh nhân truyền tế bào γδT xảy ra các biến cố phổ biến là sốt (6,7%), còn lại là các biến cố chán ăn, đau cơ, đau khớp đều chiếm 3,3%, 1 bệnh nhân giảm nhẹ bạch cầu, bạch cầu hạt và tiểu cầu sau điều trị 6 tháng. Tất cả các tác dụng phụ không mong muốn trên lâm sàng và cận lâm sàng đều nhẹ và thoáng qua, ở độ 1 theo CTCAE 5.0 và không cần điều trị gì. Do đó, nghiên cứu này đã bước đầu cho thấy tính an toàn của liệu pháp miễn dịch tự thân tế bào NK/γδT trong điều trị ung thư phổi.
#Miễn dịch tự thân #tế bào diệt tự nhiên #tế bào gamma delta T #biến cố bất lợi
Tổng số: 7   
  • 1